Nhờ Berlioz mà tôi biết đến Chopin

0
816
"C’est la plume de cette dame! Si cette plume-là ne s’en va pas, je ne pourrai pas continuer!" - Frédéric Chopin

Nhờ Berlioz mà tôi còn có một niềm vui lớn nữa trong âm nhạc.

Một tối nọ Berlioz đến nhà rủ tôi: “Đi thôi, tôi sẽ cho anh thấy một thứ anh chưa từng thấy và gặp một người anh sẽ không thể nào quên.” Chúng tôi lên tầng hai một tòa nhà có sẵn đồ đạc cho thuê và tôi thấy mình đối diện với một thanh niên xanh xao, u sầu, lịch lãm, có giọng ngoại quốc lơ lớ, cặp mắt nâu trong trẻo dịu dàng ít ai sánh bằng, mái tóc màu hạt dẻ dài gần bằng tóc Berlioz và cũng rủ một lọn trên trán.

“Chopin thân mến, đây là Legouvé bạn tôi.” Quả nhiên đó chính là Chopin, người vừa đến Paris vài ngày trước. Thoạt nhìn anh đã khiến tôi xúc động, âm nhạc của anh khiến tôi bối rối như một thứ gì đó hãy còn xa lạ.

Tôi không thể định nghĩa Chopin chính xác hơn khi nói rằng anh là một bộ ba quyến rũ (une trinité charmante). Có một sự hòa hợp nào đó giữa con người anh, cách anh chơi đàn và các tác phẩm anh viết đến nỗi ta không sao phân tách chúng ra được nữa, đó dường như là các nét khác nhau của cùng một khuôn mặt. Âm thanh đặc thù mà anh làm bật lên từ cây đàn piano giống như ánh mắt biết nói của anh; nét mặt thanh tú có phần ốm yếu của anh gắn kết với vẻ u sầu thơ mộng của các bản nocturne anh viết; và vẻ chải chuốt kiểu cách của anh khiến ta hiểu được vẻ lịch lãm rất trần tục trong một số tác phẩm của anh; anh khiến tôi có cảm giác anh là một cậu con trai của Weber và một nữ công tước; cái mà tôi gọi là cái tôi bộ ba của anh (ses trois lui) đã khiến tất cả hợp thành một.

Thiên tài nơi anh hầu như chỉ thức dậy vào lúc một giờ sáng. Cho đến lúc ấy, anh chỉ là một nghệ sĩ piano quyến rũ. Đêm đến, anh nhập vào nhóm những thiên tinh, những sinh linh có cánh, tất cả những gì bay lượn và tỏa rạng giữa cảnh tranh tối tranh sáng của một đêm hè. Khi ấy anh cần phải có một lượng khán giả rất nhỏ và rất chọn lọc. Một gương mặt hơi khó chịu cũng đủ khiến anh bối rối. Cái hôm thấy cách anh chơi đàn có vẻ không mấy quyến rũ, tôi còn nghe anh vừa thì thầm vừa chỉ vào một bà ngồi đối diện: “Chính chiếc lông chim bà này đội! Nếu chiếc lông chim này không biến mất, tôi không thể chơi đàn tiếp!” Có lần anh đã ngồi bên piano và chơi đến khi kiệt sức. Một chứng bệnh vô phương cứu chữa khiến mắt anh thâm quầng, ánh nhìn long lanh phát sốt, đôi môi đỏ như nhuốm máu và hơi thở thêm phần gấp gáp! Anh cảm thấy và chúng tôi cũng cảm thấy có cái gì đó trong cuộc sống của anh đang trôi theo những thanh âm. Anh không muốn dừng lại và chúng tôi cũng không đủ sức ngăn anh dừng lại! Cơn sốt thiêu đốt anh xâm chiếm tất cả chúng tôi! Thế nhưng có một cách chắc chắn để dứt anh ra khỏi cây đàn piano, đó là yêu cầu anh chơi bản hành khúc tang lễ mà anh ta đã sáng tác sau thảm họa Ba Lan. Chẳng bao giờ anh từ chối chơi bản nhạc này; nhưng vừa chơi xong ô nhịp cuối cùng là anh đội mũ và bỏ đi ngay. Như bài ca về sự điêu tàn của quê hương anh, bản nhạc này khiến anh quá đỗi đau lòng; anh không thể nói gì thêm sau khi đã thổ lộ, bởi người nghệ sĩ lớn này là một nhà ái quốc vĩ đại, và những nốt nhạc kiêu hãnh vang lên trong các bản mazurka của anh như những tiếng kèn hiệu đã kể lại tất cả những gì làm rung động con tim vị anh hùng phía sau gương mặt xanh xao này, người chẳng bao giờ kịp già; Chopin qua đời ở tuổi bốn mươi khi còn trai trẻ. Cuối cùng, như nét vẽ cuối cùng để hoàn thiện bức chân dung anh, hãy thêm sự tinh tế hơi mang tính giễu cợt vào con người quý phái của anh. Tôi không thể nào quên phản ứng của anh sau buổi hòa nhạc dành cho công chúng duy nhất mà anh tổ chức. Anh đã yêu cầu tôi viết bài tường thuật. Liszt đòi nhường cho mình vinh dự đó. Tôi chạy đến báo tin vui này cho Chopin song anh nhẹ nhàng bảo:

– Nếu anh viết thì tôi sẽ thích hơn.

– Anh không nghĩ vậy chứ, bạn thân mến! Một bài báo của Liszt chính là một cơ may cho công chúng và cho anh. Hãy tin tưởng vào niềm ngưỡng mộ Liszt dành cho tài năng của anh. Tôi hứa với anh rằng anh ấy sẽ tạo dựng cho anh một xứ sở tươi đẹp.

– Phải, anh vừa cười vừa bảo, trong đế chế của anh ấy!

Chopin đã lầm khi nghi ngờ bởi bài báo Liszt viết về buổi hòa nhạc này rất thú vị và đầy thiện cảm. Bản thân Liszt cũng gần như trở thành bạn tôi chỉ vì nể trọng tình bạn giữa tôi và Berlioz. Nhưng điều tốt đẹp nhất mà tôi có được từ tình bạn này chính là việc thâm nhập được vào bí mật của thiên tài này và nhân vật này để ngày nay có thể cắt nghĩa và bảo vệ nó. Hãy thành thực. Berlioz được ngưỡng mộ, được ca ngợi nhưng không được yêu thích. Ánh hào quang lấp lánh không phản chiếu trên con người anh; người ta đánh giá sai anh ở tư cách con người và người ta hiểu sai anh ở tư cách nghệ sĩ; tất cả đều lừng lẫy như vốn thế, anh vẫn ở vị thế của con nhân sư; chúng ta hãy cố gắng giải câu đố.

Hồi ký Soixante ans de souvenirs [Sáu mươi năm kỉ niệm] của nhà soạn kịch người Pháp Ernest Legouvé (1807–1903).

Tôi đang chìm đắm trong những lo âu tăm tối nhất thì Ernest Legouvé đến gặp tôi.

– Vở opéra của anh đâu? anh ấy hỏi.

– Tôi chưa hoàn thành màn thứ nhất. Tôi không có thời gian viết tiếp.

– Nhưng nếu anh có thời gian…

– Dĩ nhiên là tôi sẽ viết từ sáng đến tối.

– Anh cần gì để được tự do?

– Hai nghìn franc mà tôi không có.

– Và nếu ai đó… giả sử là…. xem nào, vậy hãy giúp tôi.

– Sao cơ? Ý anh là gì?

– À, nếu một người trong số bạn bè của anh cho anh mượn tiền…

– Tôi có thể hỏi vay ai một số tiền như thế kia chứ?

– Anh không phải đi hỏi, chính tôi sẽ cho anh vay.

Tôi để bạn đọc tự hiểu niềm vui của tôi. Legouvé cho tôi mượn tiền thật, vào ngày hôm sau, hai nghìn franc, nhờ đó tôi đã có thể hoàn thành vở opéra Benvenuto Cellini. Ôi tấm lòng cao quý! Ôi con người xứng đáng và thú vị! Nhà văn lỗi lạc mà bản thân cũng là nghệ sĩ này đã đoán ra nỗi thống khổ của tôi, và với sự tinh tế tuyệt vời của mình anh sợ sẽ làm tổn thương tôi nếu thẳng thừng đề xuất một phương tiện để chấm dứt nó!… Chỉ có các nghệ sĩ mới hiểu nhau như thế… Và tôi may mắn gặp được nhiều người đã đến giúp mình theo cách tương tự.

(trích Hồi ký của Hector Berlioz do Lê Ngọc Anh & Nguyễn Tuấn Anh dịch)

Ernest Legouvé (Ngọc Anh trích dịch)
(HNS)